Bên cạnh đó, theo ông Lê Bá Lịch, công nghệ chính là thế mạnh lớn nhất của các công ty sản xuất TĂCN của nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay, công thức pha trộn các loại dưỡng chất và vitamin (premix) của một số công ty nước ngoài khá vượt trội. Công thức này khiến thành phẩm TĂCN có khả năng giúp vật nuôi phát triển tốt, kháng một số bệnh, giảm tỷ lệ chết...
Ưu thế công nghệ
Có mặt tại Việt Nam từ năm 1993, C.P Việt Nam, thành viên của Tập đoàn Charoen Pokphand, Thái Lan, đã xây dựng sáu nhà máy chế biến TĂCN với quy mô lớn, đặt tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bến Tre, Cần Thơ, Tiền Giang và Hà Nội. Trong đó, hiện nhà máy tại Tiền Giang, Đồng Nai, Hà Nội đã hoạt động hết công suất.
Dây chuyền sản xuất thức ăn tôm của CP |
Nắm giữ vị trí thứ hai trong ngành là Cargill, tập đoàn hàng đầu của Mỹ trong lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm với hơn 159.000 nhân viên làm việc trên 68 quốc gia khắp các châu lục. Ở Việt Nam, Cargill cũng đã khánh thành nhà máy sản xuất TĂCN thứ sáu.
Lớn mạnh từ đầu và giữ vai trò tiên phong là Proconco với thương hiệu quen thuộc là Cám Con Cò nhưng do thay đổi chủ sở hữu, vị trí của Công ty C.P Việt Pháp Sản xuất thức ăn gia súc Proconco chưa ổn định. Thế nhưng, đây vẫn là một trong ba thương hiệu hàng đầu trong ngành chế biến TĂCN hiện nay.
Thế mạnh lớn và dễ thấy nhất của các đơn vị chế biến TĂCN của nước ngoài là khả năng tài chính lớn mạnh. Đây là điều kiện hết sức quan trọng. Bởi mỗi đợt thiên tai, dịch bệnh... đều ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số bán hàng.
Trong trường hợp vốn không đủ mạnh như các công ty nhỏ của Việt Nam, khi doanh số giảm kéo dài, đồng nghĩa với việc thua lỗ, khả năng đáo nợ ngân hàng khó khăn hơn rất nhiều. Ngược lại, sau khi dịch bệnh đi qua, giá bán các sản phẩm chăn nuôi như heo, gà, tôm... sẽ tăng mạnh, dẫn đến nhu cầu nuôi cao.
Như vậy, thách thức của DN nhỏ lại trở thành cơ hội để những đơn vị cung cấp TĂCN lớn, còn trụ lại, phát triển doanh số cũng như lợi nhuận.
Bên cạnh đó, theo ông Lê Bá Lịch, công nghệ chính là thế mạnh lớn nhất của các công ty sản xuất TĂCN của nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay, công thức pha trộn các loại dưỡng chất và vitamin (premix) của một số công ty nước ngoài khá vượt trội. Công thức này khiến thành phẩm TĂCN có khả năng giúp vật nuôi phát triển tốt, kháng một số bệnh, giảm tỷ lệ chết...
Ông Lịch cho biết, Nhà nước cũng đã đầu tư để phát triển công nghệ này, giúp các công ty chế biến TĂCN giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm nhưng đến nay, tình hình này vẫn chưa thể cải thiện.
Để đến gần với khách hàng, thay cho chi phí quảng bá thương hiệu, hầu hết các đơn vị sản xuất TĂCN đều tổ chức hội thảo để gặp gỡ người chăn nuôi.
Khác với các công ty trong nước, những hội thảo mà các đơn vị nước ngoài tổ chức có điều kiện cập nhật công nghệ mới giúp người nuôi có điều kiện cải tiến sản xuất. Người nuôi dễ dàng chọn sản phẩm của các công ty nước ngoài vì lẽ đó.
Khép kín giữ chặt thị trường
Nhìn vào mô hình đầu tư của các công ty chế biến TĂCN của nước ngoài, dễ thấy định hướng “Từ trang trại đến bàn ăn” đang giữ vai trò chủ lực.
Nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi - Ảnh: H.B |
Với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 3.500 tỷ đồng, C.P Việt Nam ngoài việc cung cấp thức ăn cho gia súc, gia cầm, tôm, cá với quy mô hơn gần 2.000 tấn/năm còn sản xuất và cung cấp dụng cụ, thiết bị chăn nuôi (KPI); nuôi và kinh doanh gia cầm, cung cấp con giống, hạt giống...
Sự khép kín của quy trình, ngoài việc đảm bảo tránh được rủi ro từ bệnh dịch vì cung cấp nguồn giống sạch bệnh, thức ăn tương thích với con giống... còn tạo được niềm tin với khách hàng vì khả năng đảm bảo chất lượng, kiểm dịch sản phẩm...
Ngay trong đợt dịch bệnh thì sản phẩm của C.P vẫn có khả năng tiêu thụ nhờ yếu tố này.
Không khép kín quy trình nhưng Proconco vẫn phát triển theo hướng từ trang trại đến bàn ăn bằng cách thực hiện nhiều hợp tác liên kết với các đối tác.
Cụ thể, Proconco và Tổng công ty Công nghiệp Thực phẩm Đồng Nai (Donataba) đã hợp tác với Tập đoàn GLon (Pháp) thành lập khu liên hợp công, nông nghiệp AgroPark với quy mô khoảng 1.000ha, vốn đầu tư ban đầu dự kiến khoảng 500 tỷ đồng.
Trong năm 2009, là nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có lợi thế sản xuất nông nghiệp nhưng chúng ta cũng đã chi trên 2,1 tỷ USD nhập khẩu các loại TĂCN và nguyên liệu, cộng thêm gần 500 triệu USD mua thuốc thú y. Trong đó trên 1 tỷ USD để mua khô dầu đậu tương, trên 300 triệu USD mua bắp, trên 280 triệu USD mua bột cá, xương thịt... |
Trong đó, GLon chịu trách nhiệm quản lý và cung cấp dịch vụ kỹ thuật cho chăn nuôi, từ con giống, thức ăn, kỹ thuật nuôi, chuồng trại, thú y đến bao tiêu sản phẩm; giết mổ, chế biến và cung cấp ra thị trường sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
Khu liên hợp công, nông nghiệp AgroPark là mô hình một chuỗi sản xuất khép kín cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực chăn nuôi, giết mổ, chế biến...
Theo Proconco, đây là chiến lược nhằm tận dụng lợi thế cạnh tranh và dựa vào sức mạnh sẵn có của các thành viên trong chuỗi để phát triển.
Nhờ bước đi chiến lược, đánh đúng vào nhu cầu của người tiêu dùng trong vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như đảm bảo đầu ra cho sản phẩm từ người nuôi, việc các đơn vị nước ngoài có lợi thế hơn DN trong nước cũng là điều dễ hiểu.
Thế nhưng, để xây dựng được mô hình này lại là điều không đơn giản. Thua tài chính, kém công nghệ, DN chế biến TĂCN trong nước đành phải ngậm ngùi, chấp nhận thua trên sân nhà dẫu rằng đến hiện nay, nhu cầu thị trường, những “đại gia” của ngành vẫn chưa cung cấp nổi.
Nghịch lý nhập bắp
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành chăn nuôi phát triển nhanh, kéo theo ngành công nghiệp sản xuất TĂCN tăng trưởng 10 - 15%/năm. Thế nhưng, do phải phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, nên lợi nhuận của ngành chăn nuôi không đáng kể. Thực tế sản xuất cho thấy, các DN phải nhập khẩu gần như hoàn toàn thành phần trong khẩu phần thức ăn của cá tra như bột cá, đậu nành, bột thịt, premix, các chất phụ gia, thuốc thú y cũng phải nhập khẩu hoàn toàn. Do đó, tính trung bình, xuất khẩu cá tra mang về khoảng 1,3 - 1,5 tỷ USD, nhưng riêng chi phí TĂCN đã mất 1,05 tỷ USD.
Các nguyên liệu chính để sản xuất TĂCN như bắp, khô đậu nành, mì viên, bột cá, dầu cọ, premix và các chất khoáng ngành nông nghiệp nội địa có thể đáp ứng được tới 95%. Ông Lê Bá Lịch cho rằng, nguyên nhân chính là do không có đầu tư quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu. Vì vậy, mới dẫn đến nghịch lý là phải nhập bắp, cám gạo, cám mì. Hiện nay, cả nước có khoảng 1 triệu ha bắp với sản lượng khoảng 4 triệu tấn/năm, nhưng nằm rải rác ở hầu hết các tỉnh chứ không được quy hoạch lại thành vùng. Do đó, vào mùa sản xuất, DN chỉ thu gom được khoảng 2,2 triệu tấn cho sản xuất thức ăn công nghiệp, còn lại là nằm phân tán, để ẩm mốc, kém chất lượng. Cũng vì lý do này, mỗi năm Việt Nam sản xuất ra khoảng 34 - 36 triệu tấn lúa, trên dưới 2 triệu tấn mì lát, nhưng cuối cùng DN vẫn phải đổ ngoại tệ vào nhập khẩu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét