Sản xuất tivi, VTB cũng bắt buộc phải sử dụng các panel chất lượng. Do đó, khi ra một chiếc tivi gắn với thương hiệu VTB, chắc chắn không thể buộc khách hàng trả giá mua bằng với giá của các các thương hiệu nổi tiếng khác, trong khi chi phí cho sản xuất thì như nhau. Do đó, dù cố gắng tỷ lệ nội địa hóa tối đa 10%, nhưng lợi nhuận thu được chỉ đủ trang trải chi phí.
Các nhà sản xuất điện tử nước ngoài có mặt ở Việt Nam chủ yếu chỉ làm công đoạn cuối là lắp ráp, đóng gói với những linh kiện sản xuất được nhập khẩu. Trong khi các DN nội, sau khi không còn được bảo hộ, chật vật không tìm được lối thoát khi đương đầu với hàng ngoại nhập. Vì thế, ngành công nghiệp điện tử đang dần trở về vạch xuất phát ...
Đầu những năm 1990, khi mà tốc độ phát triển ngành điện tử Việt Nam đang ở mức 20 - 30%, dù thị trường nội địa và xuất khẩu phần lớn thuộc về các tên tuổi như: LG, Sony, Sanyo..., nhưng các thương hiệu điện tử trong nước vẫn còn giữ được chỗ đứng của mình. Còn giờ đây, phần lớn đều ở trong tình cảnh “trôi dạt” để cố gắng không chìm.
Lay lắt
Thời gian này, tìm đến các trung tâm điện máy hay cửa hàng bán đồ điện tử, thương hiệu Tiến Đạt gần như vắng bóng. Thăm dò từ các nhà phân phối, được biết lâu rồi Tiến Đạt không ra sản phẩm mới nào. Có nơi còn cho biết Tiến Đạt "nay mai sẽ ngừng luôn sản xuất".
Nếu Tiến Đạt ngưng sản xuất, ngành điện tử sẽ thật sự mất đi một thương hiệu truyền thống. Thành lập từ năm 1979, người tiêu dùng đã quá quen với các sản phẩm: âm ly, loa, đầu DVD... chất lượng mang thương hiệu Tiến Đạt.
Thậm chí, cách đây vài năm, công ty này còn mạnh dạn tham gia cả vào phân khúc lắp ráp tivi thương hiệu Việt.
Đặt thẳng vấn đề này với bà Dương Trung Phước, Tổng giám đốc Công ty TNHH Điện tử Tiến Đạt. Bà Phước cho biết sẽ không rút hẳn khỏi thị trường điện tử Việt Nam, nhưng sẽ phải thu hẹp sản xuất một cách tối đa.
Theo bà Phước, doanh thu từ hàng điện tử không còn bằng những năm trước, và lại càng khó khăn hơn khi phải cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu.
Hiện công ty chỉ còn 130 công nhân, sản xuất vài mặt hàng cũ và tìm cách phân phối cho các khách hàng dự án, như bệnh viện, trường học. Riêng mặt hàng tivi, Tiến Đạt đã ngưng sản xuất từ hơn 1 năm nay.
Không bi đát như Tiến Đạt, nhưng những tên tuổi hàng điện tử một thời của Việt Nam như: Vietronic Tân Bình (VTB), Vietronic Biên Hòa (Belco), Maseco (Phú Nhuận)... cũng chật vật tìm lối đi.
Đã có lúc, thị trường tivi trong nước tưởng chừng VTB sẽ làm một cuộc đột phá thành công khi tung ra sản phẩm tivi được đầu tư rất bài bản. Nhưng rồi các sản phẩm này cũng chỉ xuất hiện rải rác và bán cầm chừng.
Ông Vũ Dương Ngọc Duy, Phó tổng giám đốc Công ty CP Điện tử Tân Bình (VTB) cho biết, trong một chiếc tivi, giá thành của một panel (tấm màn hình) là lớn nhất, mà giá panel trên thế giới thì hãng nào cũng như hãng nào, chỉ được cung ứng ở vài nhà máy cố định.
Sản xuất tivi, VTB cũng bắt buộc phải sử dụng các panel chất lượng. Do đó, khi ra một chiếc tivi gắn với thương hiệu VTB, chắc chắn không thể buộc khách hàng trả giá mua bằng với giá của các các thương hiệu nổi tiếng khác, trong khi chi phí cho sản xuất thì như nhau. Do đó, dù cố gắng tỷ lệ nội địa hóa tối đa 10%, nhưng lợi nhuận thu được chỉ đủ trang trải chi phí.
Tương tự, năm 2007 Công ty CP Dịch vụ Phú Nhuận (Maseco) cũng quyết định sản xuất tivi LCD. Ông Trịnh Ngọc Minh, Phó tổng giám đốc Maseco cho biết, ngày đó, một chiếc tivi 32inch thương hiệu Ariang của Maseco giá bán hơn 1.000USD.
Nhưng khi các tivi LCD cùng loại của các thương hiệu lớn khác xuất hiện ồ ạt, làm mất giá tới 70%, thì Công ty quyết định phải ngừng sản xuất mặt hàng này.
Cứng sống nhờ mềm
Lắp ráp sản phẩm DVD tại Tiến Đạt |
Ông Lê Văn Chính từng giữ cương vị Tổng giám đốc của VTB. Sau một thời gian dồn hết tâm huyết vào việc nghiên cứu phát triển sản phẩm điện tử, cuối cùng ông cũng phải ra đi vì không đạt được sự đồng thuận trong hướng đi của VTB.
Rút vốn khỏi VTB, ông Chính hiểu rõ những khó khăn của ngành điện tử trong nước, nên khi thành lập ra Công ty CP Truyền thông Sơn Ca, ông chọn một hướng đi khác.
Được biết đến với sản phẩm đầu DVD karaoke HD, nhưng Sơn Ca lại thu lợi không phải từ việc bán đầu đĩa. Ông Chính cho đặt gia công gần như hoàn toàn từ Trung Quốc (TQ) với quan điểm “nhà máy TQ, chất xám Việt Nam”.
Chẳng hạn, đầu DVD karaoke, phía TQ chỉ làm được phần gia công, riêng phần mềm Việt hóa bên trong thì chịu. Do đó, cũng là một đầu DVD, nhưng giá trị phần mềm thu được từ mỗi sản phẩm cũng lên tới 5 - 10USD. Hiện doanh số của Sơn Ca khoảng 80 tỷ đồng/năm, nhưng theo ông Chính, chỉ đủ nuôi công ty, phần lời được tính riêng vào nghiên cứu phần mềm.
Hướng đi của Sơn Ca cũng chính là hướng đi của phần lớn các công ty điện tử khác. Hiện Maseco là doanh nghiệp điện tử hiếm hoi được cho là thành công với các mặt hàng điện tử chuyên biệt. Ngoài thất bại với sản phẩm tivi LCD, thì Maseco rất thành công với sản phẩm đầu DVD karaoke, âm ly, loa.
Phó tổng giám đốc Trịnh Ngọc Minh cho biết, ngay từ khi hình thành vào năm 1994, Maseco đã xác định chiến lược: mua công nghệ để phát triển chứ không chỉ là lắp ráp. Ban đầu, Maseco gây tiếng vang bằng việc đặt linh kiện, công nghệ của Hàn Quốc, nên thương hiệu Ariang nhanh chóng chinh phục khách hàng.
Chẳng hạn, với sản phẩm DVD karaoke, Công ty xác định “nhạc là phần hồn”. Bởi vì, chỉ có công ty của Việt Nam mới hiểu các bài hát Việt Nam, đồng thời phải duy trì tính pháp lý về tác quyền bài hát mới thành công và lớn mạnh được.
Hiện mỗi năm danh mục bài hát trong đĩa karaoke của Maseco tăng hơn 1.000 bài, kể cả hơn 4.000 bài nhạc nước ngoài cũng đã được mua bản quyền.
“Chủ lực”: Làm hộp giấy và lắp ráp
Ông Lê Văn Chính tính toán giá thành sản xuất của một chiếc tivi màn hình phẳng gồm: 27USD là bo mạch, 39USD là bóng đèn hình, 11USD vỏ nhựa, hộp giấy 1USD, công lắp ráp 2USD.
Trong số những linh kiện đó, doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm được hai khâu là hộp giấy và lắp ráp. Nếu giỏi hơn thì đặt gia công vỏ nhựa trong nước.
Như vậy, sau khi tính toán mọi chi phí, một chiếc tivi của Việt Nam bán ra chỉ lời khoảng 20.000 đồng. Chưa kể, một nhà máy muốn có lời thì phải bán được cho một nửa thị trường châu Á.
Không đâu xa, theo tính toán, tivi của Belco chỉ có khoảng 1% khách hàng của Việt Nam, tương đương với khoảng 800.000 chiếc.
Dù được coi là thành công, nhưng ông Trịnh Ngọc Minh vẫn thẳng thắn cho rằng, ngoài phần mềm tự nghiên cứu, tối đa nội địa hóa những linh kiện có thể làm được, thì sản phẩm của Maseco cũng vẫn mang nặng tính lắp ráp.
Theo ông Minh, Việt Nam phải phát triển công nghiệp phụ trợ, nếu không ngành điện tử sẽ không bao giờ phát triển được. Những linh kiện tối cần thiết như: tụ điện, điện trở, mắt đọc, con IC...
Việt Nam hầu như không làm được. Mà nếu có làm được thì cạnh tranh cũng không lại với bên ngoài. Ông Minh đã từng biết một số linh kiện phụ trợ trong nước làm ra với chất lượng tốt, nhưng chưa chắc tiêu thụ được vì giá thành cao do không có hỗ trợ từ bên trên.
Sở dĩ tại sao doanh nghiệp trong nước cứ phải mua linh kiện TQ, bởi cả thế giới đều mua tại đây, dẫn đến mặt hàng đa dạng, giá rẻ.
Chính nhờ công nghiệp phụ trợ phát triển, mà các nhà sản xuất ở nước ngoài luôn dễ dàng mua linh kiện về để phục vụ cho thử nghiệm sản phẩm mới.
Ông Minh cũng thẳng thắn cho rằng, Công ty rất muốn sử dụng hàng Việt, nhưng mua linh kiện trong nước về sản xuất mà giá thành quá cao nên đành... chịu!.
Ban đầu, Maseco nhập linh kiện của Hàn Quốc, nhưng sau này thì chính Hàn Quốc cũng đặt gia công tại TQ. Nếu vẫn tiếp tục đặt hàng của Hàn Quốc, giá sẽ cao hơn 20%.
Đồng quan điểm với ông Minh, một doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử cho biết, vỏ đầu đĩa DVD đặt làm ở Việt Nam chất lượng không cao, công suất lại thấp.
Trong khi một nhà máy gia công ở TQ, một ngày làm ra 10.000 vỏ, thì đối tác gia công ở Việt Nam nửa tháng mới cho ra 10.000 vỏ, chưa kể phía TQ làm khép kín từ sản xuất vỏ cho đến sơn.
Nhưng ông vẫn đặt gia công trong nước do việc vận chuyển hàng từ TQ về thường hay bị hư hỏng. Thành ra làm tại Việt Nam đắt hơn 10% nhưng ông vẫn đặt hàng trong nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét