Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Có thể bạn chưa biết: Chữ ký số chính thức được bán rộng rãi

Nếu sử dụng chữ ký số, chỉ có lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm ký, điều này khiến các doanh nghiệp không yên tâm. “Bkav đã giải quyết được hạn chế này bằng Bộ công cụ BkavCA PlugIn, cho phép việc ký số được thực hiện với từng vị trí trách nhiệm trong doanh nghiệp, thay vì chỉ duy nhất lãnh đạo chịu trách nhiệm ký.
Việt Nam có 5 nhà cung cấp dịch vụ Chứng thực chữ ký số đã được cấp phép. Tuy nhiên cho đến nay, mới chỉ có chữ ký số sử dụng cho kê khai thuế qua mạng, chưa có doanh nghiệp nào chính thức đưa đầy đủ các dịch vụ vào hoạt động. Công ty An ninh mạng Bkav là doanh nghiệp đầu tiên cung cấp rộng rãi ra thị trường đầy đủ các loại Chữ ký số phục vụ kê khai thuế qua mạng, giao dịch ngân hàng, chứng khoán, hải quan điện tử, ký và mã hóa email, văn bản…
Một cản trở không nhỏ cho quá trình phổ biến chữ ký số tại Việt Nam, là băn khoăn của các doanh nghiệp về tính phân cấp trách nhiệm khi ký bằng chữ ký số. Ví dụ, khi lập một tờ khai thuế, thường mỗi bản kê khai phải có chữ ký của người lập biểu, kế toán viên, kế toán trưởng, rồi mới đến lãnh đạo doanh nghiệp.

Nếu sử dụng chữ ký số, chỉ có lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm ký, điều này khiến các doanh nghiệp không yên tâm. “Bkav đã giải quyết được hạn chế này bằng Bộ công cụ BkavCA PlugIn, cho phép việc ký số được thực hiện với từng vị trí trách nhiệm trong doanh nghiệp, thay vì chỉ duy nhất lãnh đạo chịu trách nhiệm ký.
Với BkavCA PlugIn, người sử dụng có thể ký được nhiều file đồng thời theo lô”, ông Ngô Tuấn Anh, Giám đốc Bkav Telecom, cho biết. 

Để có Chữ ký số, khách hàng chỉ cần truy cập website bkavca.vn hoặc gọi điện thoại đến nhà cung cấp dịch vụ để đăng ký. “Mọi thủ tục còn lại như nhận hồ sơ và trao Chữ ký số sẽ được Bkav chịu trách nhiệm thực hiện tại địa điểm của khách hàng.
Đây là hình thức cung cấp dịch vụ chữ ký số duy nhất mà người dân và doanh nghiệp được phục vụ tận nơi mà không phải trả thêm phí, thay vì phải trực tiếp đến các điểm giao dịch của nhà cung cấp”, ông Ngô Tuấn Anh khẳng định.

Chia sẻ với bạn tin tức: Google sẽ triển khai dịch vụ sách điện tử tại Nhật

Hiện Google tung ra hai phiên bản dịch vụ sách điện tử là Google Books và Google Editions. Bản Google Books cung cấp miễn phí và cho xem trước một phần nhỏ nội dung cuốn sách, trong khi Google Editions cho phép tiếp cận đầy đủ nội dung sách đã được số hóa với mức giá cụ thể.
Tập đoàn Internet khổng lồ Google thông báo sẽ triển khai dịch vụ sách điện tử tại thị trường Nhật Bản vào năm 2011, cho dù các nhà xuất bản chủ chốt tại đất nước "Mặt Trời mọc" không thực sự hào hứng với kế hoạch này.
Giám đốc phát triển chiến lược Google tại Nhật Bản, Yoichi Sato tiết lộ, dịch vụ Google Editions phiên bản tiếng Nhật sẽ được bắt đầu với một số lượng hạn chế tựa đề sách, bởi lẽ các nhà xuất bản hàng đầu tại Nhật Bản vẫn lưỡng lự về việc hợp tác và cung cấp cho Google dữ liệu sách, đặc biệt là các tựa sách do tác giả giữ bản quyền.
Dịch vụ Google Books (Nguồn: Internet)
Họ lo ngại rằng nội dung sách có thể bị sử dụng cho những mục đích ngoài dự tính. Mặt khác, luật tác quyền Nhật Bản cũng quy định nghiêm ngặt về quy trình cấp phép liên quan tới tác giả và nhà xuất bản, trước khi Google có thể sử dụng nội dung sách cho mục đích tìm kiếm và bán trực tuyến.
Hiện Google tung ra hai phiên bản dịch vụ sách điện tử là Google Books và Google Editions. Bản Google Books cung cấp miễn phí và cho xem trước một phần nhỏ nội dung cuốn sách, trong khi Google Editions cho phép tiếp cận đầy đủ nội dung sách đã được số hóa với mức giá cụ thể.
Tại Mỹ và châu Âu, Google cũng bắt đầu triển khai Google Editions và bán các loại sách điện tử có thể đọc trên những thiết bị hỗ trợ kết nối Internet, trong đó có máy tỉnh bảng đình đám iPad của Apple.
Theo Giám đốc Sato, Google Editions có thể không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho Google, song sẽ giúp gia tăng giá trị thị trường nói chung của tập đoàn, đồng thời thúc đẩy doanh thu từ quảng cáo.
Trên thực tế, sách điện tử vẫn được coi là hàng hiếm tại thị trường Nhật Bản và các nhà xuất bản tại nước này mới chỉ bắt đầu cân nhắc việc tiếp cận công nghệ mới này.

Tìm câu trả lời cho: Mở rộng chi nhánh tại nước ngoài: Nên chưa?

Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Tập đoàn Sacombank, chia sẻ, sẽ tiếp tục đẩy mạnh phát triển ở các thị trường này. Do đó, dự kiến trong giai đoạn 2011, Tập đoàn sẽ nâng cấp chi nhánh Sacombank ở thị trường Campuchia và Lào thành NH con 100% vốn trực thuộc Tập đoàn. Vốn cho NH con tại Campuchia theo quy định của nước sở tại là 38 triệu USD.
Một số ngân hàng Việt Nam thời gian qua đã nhanh chân mở rộng hoạt động sang khu vực Đông Dương nhằm tận dụng lợi thế cận biên. BIDV liên doanh thành lập ngân hàng tại Campuchia; Sacombank với chi nhánh ở Lào và Campuchia đang lên kế hoạch thành lập ngân hàng con 100% ở hai thị trường này. Ngoài ra đích ngắm của ngân hàng đầy tham vọng này còn là Trung Quốc.
Bén rễ Đông Dương
Tính đến nay, riêng tại thị trường Campuchia, ba ngân hàng (NH) lớn của Việt Nam là Agribank, BIDV, Sacombank đã đặt chân vào đây với nhiều tính toán khác nhau. Sau khi đã đặt chi nhánh tại Phnom Penh vào cuối tháng 7/2010, NH Đầu tư Phát triển Campuchia (BIDC) khai trương thêm chi nhánh mới tại thành phố Siem Reap.
Lễ mở bảng tên BIDC tại Siem Reap
Sau khi tái cấu trúc lại từ NH Thịnh vượng Campuchia (PIB) với vốn điều lệ 70 triệu USD, với gần một năm hoạt động, BIDC đã kinh doanh có lãi và hiện nay đã nâng tổng vốn tài sản lên 150 triệu USD.
Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT của BIDV cho biết, với uy tín và thương hiệu sẵn có của BIDV, BIDC đã nhanh chóng được thị trường tài chính - NH Campuchia biết đến và bước đầu đã thực hiện được mục tiêu đề ra là kết nối thị trường tài chính giữa hai nước, cung cấp các gói dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Campuchia.
Cũng bắt đầu bằng thành lập chi nhánh, NH Sacombank cho biết sẽ sớm hoàn tất hồ sơ xin phép thành lập NH ở Campuchia và Lào. Bởi vì, chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động, cả hai chi nhánh trên của Sacombank đã đóng góp lớn vào tổng lợi nhuận cho Sacombank.
Sau khi nghiên cứu kỹ về thị trường Campuchia, Lào và nhận thấy các thị trường này phù hợp với chiến lược phát triển NH bán lẻ. Vì vậy, Sacombank muốn mang sản phẩm, dịch vụ tài chính bán lẻ ở Việt Nam để áp dụng tại chi nhánh của Sacombank ở thị trường Đông Dương.
Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Tập đoàn Sacombank, chia sẻ, sẽ tiếp tục đẩy mạnh phát triển ở các thị trường này. Do đó, dự kiến trong giai đoạn 2011, Tập đoàn sẽ nâng cấp chi nhánh Sacombank ở thị trường Campuchia và Lào thành NH con 100% vốn trực thuộc Tập đoàn. Vốn cho NH con tại Campuchia theo quy định của nước sở tại là 38 triệu USD.
Theo Sacombank, việc có mặt của NH Việt Nam trên thị trường Campuchia ở thời điểm này không phải là muộn mà thực sự đã chín muồi khi nhu cầu giao thương gia tăng. Khác với Malaysia, Indonesia, NH Việt Nam có những lợi thế nhất định, đó là con đường giao thương mậu dịch cận biên. Vì có nhiều doanh nghiệp Việt Nam sang làm việc tại Campuchia và ngược lại nên sẽ là cơ hội cho các NH phát triển.
Nhưng với việc NH Nhà nước Campuchia (NBC) vừa đồng ý cho phép NH Trung Quốc (BOC) mở chi nhánh tại thành phố Phnom Penh trong năm 2010, trở thành NH thương mại đầu tiên của nước này tại Campuchia, thật sự cũng là thách thức với NH Việt Nam. BOC là một trong những NH lớn của Trung Quốc với tổng tài sản tính tới cuối quý I/2010 là 1,42 ngàn tỷ USD và tổng số tiền gửi lên tới 1,34 ngàn tỷ USD.
Trở ngại tại Trung Quốc
Cũng cùng đặc điểm cận biên, Trung Quốc được không ít NH trong nước xem như thị trường cần phải đặt chân tới. Sacombank vẫn là NH quyết tâm hơn cả khi quyết định mở chi nhánh tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây từ năm 2008.
Sở dĩ Sacombank quyết tâm như vậy là bởi trước đó, NH này cũng đã thành lập mô hình NH dành riêng cho người Hoa tại TP.HCM và phát triển hệ thống chi nhánh tại các tỉnh gần biên giới Trung Quốc như Lạng Sơn, Quảng Ninh nhằm đáp ứng nhu cầu giao thương giữa doanh nghiệp, người dân hai nước.
Cuộc khảo sát của PricewaterhouseCoopers (PwC) với 42 tổ chức tài chính nước ngoài tại Trung Quốc mới đây cho thấy triển vọng tăng trưởng NH nước ngoài trong năm 2010 rất rõ. Trong đó, năm NH dự kiến tăng trưởng trên 100%, 12 NH dự báo tăng trưởng từ 20% và 5% trong 40 năm tới, trong khi 16 NH dự báo tăng trưởng 10 -20%. Chỉ có ba NH được dự đoán tăng trưởng ở mức 0 - 3%.
Theo phó giám đốc một NH lớn tại TP.HCM, khi nghiên cứu thị trường Trung Quốc, ông đã thấy được nhiều tiềm năng từ khu vực này. Bằng chứng là theo kết quả khảo sát của tờ Trung Hoa Nhật báo (China Daily), hơn 57% tổng số người được hỏi cho biết sẽ chuyển tiền gửi từ các NH nội hiện nay sang gửi ở các NH ngoại, một khi họ được hoạt động giống như các NH nội, bắt đầu từ năm nay.
Chỉ có 34% tổng số người được hỏi cho biết sẽ không chuyển tiền gửi sang các NH ngoại. Sở dĩ đa số dân Trung Quốc tỏ ý muốn chuyển tiền gửi từ các NH nội hiện nay sang gửi ở các NH ngoại là do độ tin cậy cao cũng như phong cách cung cấp sản phẩm dịch vụ chuyên nghiệp của các NH ngoại.
Tuy nhiên, tín hiệu tốt này chưa thể khuyến khích các NH Việt Nam vì còn quá nhiều khó khăn trước mắt. Sacombank là một ví dụ điển hình. Mới đây, Sacombank đã phải đóng cửa văn phòng đại diện ở Nam Ninh sau một thời gian hoạt động. Lý do là Sacombank chưa đáp ứng được điều kiện về quy mô tổng tài sản là 20 tỷ USD để phát triển chi nhánh theo quy định của Chính phủ Trung Quốc.
Cũng nói về vấn đề mở rộng thị trường, ông Lý Xuân Hải, Tổng giám đốc NH ACB nói rằng, về quy mô tổng tài sản hiện ACB đứng thứ tư trong hệ thống NH thương mại cổ phần. Tuy nhiên, nếu mở rộng hoạt động ra nước ngoài, theo ACB vẫn còn quá sớm và chưa đủ tiềm lực. Vì thực tế, ở một số nước trên thế giới điều kiện để mở một chi nhánh là không nhỏ.
Cũng theo ông, ở các nước phát triển, yêu cầu về vốn để mở rộng hoạt động rất lớn. Đồng thời, chi phí lương nhân viên cũng như các yêu cầu khác là không nhỏ. Vì thế, với quy mô tổng tài sản như hiện nay, các NH trong nước khó có thể đáp ứng được yêu cầu của các nước phát triển.
Chung quan điểm với ông Lý Xuân Hải, chiến lược của không ít NH trong nước vẫn là củng cố và đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa. Theo đánh giá của các NH này, tiềm năng của thị trường trong nước cho hoạt động tài chính - NH bán lẻ.
Điều đó được chứng minh là nhiều tập đoàn tài chính nước ngoài muốn thành lập NH con 100% vốn ngoại tệ Việt Nam. Mặt khác, các NH trong nước cho biết, chưa đủ tiềm lực để mở rộng hoạt động ở một số nước phát triển nên trước mắt chỉ muốn khai thác thị trường nội địa. 
 

Tìm hiểu sự việc hướng đến sàn Trung Quốc

Đánh giá của Công ty phân tích thị trường và tư vấn tài chính Z-Ben Advisors: “Sự có mặt của những công ty nước ngoài sẽ góp phần không nhỏ, nhằm tạo thị trường tài chính rộng và sâu hơn. Và đó là một trong những bước tiến quan trọng biến Thượng Hải thành trung tâm tài chính quốc tế”
Dòng tiền đang đổ về đại lục
Các thương vụ niêm yết của các doanh nghiệp (DN) Trung Quốc thời gian qua luôn là tâm điểm của giới đầu tư thế giới do quy mô rất lớn của các đợt niêm yết này. Chẳng hạn, NH Nông nghiệp Trung Quốc huy động số tiền lên tới 25 tỷ USD. Khi lên sàn, NH Nông nghiệp Trung Quốc sẽ được niêm yết trên cả thị trường chứng khoán Hồng Kông và Thượng Hải.
Những DN Việt Nam muốn niêm yết trên sàn chứng khoán Trung Quốc vào năm 2011, thì ngay từ bây giờ đã phải chuẩn bị trước (Ảnh minh họa)
Tiếp theo các đợt niêm yết DN trong nước, Chính phủ Trung Quốc lên kế hoạch cho phép các DN nước ngoài niêm yết tại các sàn chứng khoán đại lục. Để mở đường, ngày 18/8, NH Nhân dân Trung Quốc ra quy định cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài đầu tư cổ phần bằng đồng nhân dân tệ vào thị trường trái phiếu liên NH, trong khi vẫn duy trì các giới hạn chuyển đổi ngoại tệ cho các khoản đầu tư đó.
Tiếp đó, lần đầu tiên một công ty nước ngoài là McDonald’s tại Trung Quốc đã được phép bán trái phiếu dùng tiền Trung Quốc. Động thái này đang được các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi như một dấu hiệu thay đổi chính sách tài chính, tiền tệ của đại lục trong nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài.
Theo đánh giá PricewaterhouseCoopers (PwC), Trung Quốc có thể trở thành thị trường phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) lớn nhất thế giới trong năm nay. Dự báo, DN Trung Quốc có thể thu hút được khoảng 500 tỷ nhân dân tệ (tương đương 74 tỷ USD) thông qua các đợt IPO trong năm 2010.
Trả lời về kế hoạch các công ty nước ngoài có thể niêm yết tại sàn Thượng Hải, Tổng giám đốc Văn phòng Dịch vụ Tài chính Thượng Hải Fang Xinghai cho biết: “Công tác chuẩn bị đang được ráo riết thực hiện. Chúng tôi hy vọng tất cả sẽ hoàn tất và sẵn sàng vào năm 2011”.
Theo dự đoán của PricewaterhouseCoopers (PwC), tổng giá trị cổ phiếu bán cho công chúng lần đầu tại Thượng Hải và Thâm Quyến của các công ty có thể đạt 500 tỷ nhân dân tệ (74 tỷ USD) trong năm 2010, nhiều hơn bất cứ thị trường nào khắp thế giới.
Đánh giá của Công ty phân tích thị trường và tư vấn tài chính Z-Ben Advisors: “Sự có mặt của những công ty nước ngoài sẽ góp phần không nhỏ, nhằm tạo thị trường tài chính rộng và sâu hơn. Và đó là một trong những bước tiến quan trọng biến Thượng Hải thành trung tâm tài chính quốc tế”.
Ông Fang còn cho biết: “Các công ty nước ngoài về tài chính, truyền thông, hàng tiêu dùng, công nghiệp sản xuất luôn quan tâm và tìm đến Thượng Hải ngày càng nhiều để bàn thảo về vấn đề bán cổ phiếu tại thị trường rộng lớn này”.
Ủy ban Điều tiết Chứng khoán Trung Quốc và Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải đang nỗ lực hoàn tất những luật định cần thiết cho việc gia nhập thị trường cổ phiếu của những công ty nước ngoài...
Frank Lyn của PwC tại Trung Quốc tiết lộ: “Hai công ty nước ngoài và một công ty có chủ sở hữu người Trung Quốc đang sẵn sàng gia nhập thị trường chứng khoán quốc tế Thượng Hải rất sớm, có thể là vào cuối năm 2010”.
Nhà chiến lược dịch vụ tài chính UBS John Tang tin rằng Coca-Cola, General Electric, Wal-Mart sẽ là những tập đoàn và DN hàng đầu Hoa Kỳ đầu tiên gia nhập thị trường chứng khoán Thượng Hải.
Cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam
TS. Alan Phan, Chủ tịch quỹ đầu tư Viasa, đã có hơn 20 năm làm ăn, kinh doanh tại Trung Quốc. Khi nhận được tin về khả năng niêm yết tại thị trường Trung Quốc, đích thân ông gọi điện cho một người bạn nằm trong ban điều hành của Ủy ban Điều tiết Chứng khoán Trung Quốc hỏi về quyết định này.
Tháng 6/2009, các nhà quản lý chứng khoán Trung Quốc đã cho phép nối lại các vụ IPO, sau khoảng 10 tháng tạm ngưng để ngăn biến động của thị trường trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo số liệu của Bloomberg, cty chứng khoán Haitong đi đầu trong lĩnh vực tư vấn và bảo lãnh phát hành trong các đợt IPO tại Trung Quốc năm nay. Đứng ở vị trí thứ 2 là cty chứng khoán Ping An. 
Ông Alan cho rằng, các DN Việt Nam nên chú ý đến thông tin này. Ngoài việc đánh bóng thương hiệu khi niêm yết tại sàn Trung Quốc, đây cũng được coi là một kênh huy động vốn khổng lồ.
Năm 2009, các công ty Trung Quốc đã thu được 187,9 tỷ nhân dân tệ từ thị trường chứng khoán. Như vậy, khi DN nước ngoài được phép niêm yết tài sàn chứng khoán Trung Quốc, chắc chắn sẽ là một cơ hội thuận lợi để đón nguồn vốn từ đại lục.
Nhận định của TS. Alan Phan thật sự đáng lưu ý. Thời gian gần đây, khi nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, thị trường chứng khoán Trung Quốc được nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá sẽ vươn lên đứng đầu thế giới.
Chuyên gia Timothy Moe của Goldman Sachs dự báo tăng trưởng kinh tế và quy mô thị trường vốn lớn sẽ có thể giúp nâng tỷ lệ đóng góp của thị trường chứng khoán nhóm nước mới nổi lên 55% vào năm 2030 từ con số 31% hiện nay.
Khi được hỏi về thông tin công bố của Trung Quốc, ông Nguyễn Đoan Hùng, Phó chủ tịch Thường trực Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trả lời một cách dè dặt và có vẻ chưa nắm được thông tin.
Ông cho biết, riêng với thị trường chứng khoán Trung Quốc, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng chỉ mới ký thỏa thuận hợp tác với Sở Chứng khoán thành phố Thâm Quyến. Nhưng nhìn chung về niêm yết ra nước ngoài, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vẫn chỉ dừng lại ở việc đang tiến hành soạn thảo hướng dẫn về việc DN trong nước niêm yết ra nước ngoài và nước ngoài niêm yết vào Việt Nam.
Theo ông Hùng, niêm yết ở nước ngoài phải xuất phát điểm từ DN, muốn đẩy mạnh thương hiệu để phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại thị trường đó hoặc huy động vốn. Về phía Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chưa có nhận định gỡ về thị trường Trung Quốc cả.
TS. Alan Phan cho rằng, mốc thời gian 2011 được đưa ra, những DN Việt Nam muốn niêm yết trên sàn chứng khoán Trung Quốc, cụ thể là Thượng Hải, thì ngay từ bây giờ đó phải chuẩn bị trước.
Theo ông, quy định dành cho DN nước ngoài niêm yết trên sàn Trung Quốc sẽ không khác nhiều so với với quy định dành cho DN trong nước. DN Việt Nam nên liên hệ trực tiếp với Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải để tìm hiểu thông tin, hoặc chọn một số công ty tư vấn để hỗ trợ thủ tục cần thiết. 
 

Tìm hiểu về những ngôi sao không sáng

Ông Hla Aye, thành viên Hiệp hội Du lịch Myanmar, cho biết: “Resort là một mô hình nghỉ dưỡng cao cấp, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và nhu cầu của con người. Vì vậy, đầu tư vào resort là sự đầu tư đúng hướng, không những mang lại lợi nhuận cao, mà còn góp phần đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, giữa lợi nhuận và bài toán đầu tư là một khoảng cách lớn, không chỉ đòi hỏi nguồn vốn mà còn đòi hỏi phải biết cách làm. Điều này không phải nhà đầu tư nào cũng làm được”.
Một nhà đầu tư ví von: “một ha đất làm nông nghiệp chỉ thu được 100 ngàn đồng, nhưng nếu chuyển sang làm resort thì hiệu quả lớn hơn hàng chục ngàn lần”. Bài toán lợi nhuận đó đã tạo nên cơn lốc đầu tư vào resort, nhưng cũng cuốn theo cả những trái đắng cho nhiều nhà đầu tư.
Chưa “khai” đã “phá”
Năm 1995, Bình Thuận trở thành tâm điểm của sự kiện “Nhật thực - chuyện tình vũ trụ giữa mặt trăng và mặt trời”. Từ đó, Mũi Né xuất hiện trên bản đồ du lịch trong và ngoài nước, tạo tiền đề cho du lịch Bình Thuận tăng tốc, thu hút hàng loạt nhà đầu tư. Resort, khu nghỉ dưỡng cao cấp phát triển mạnh mẽ dọc bờ biển Ninh Thuận, Bình Thuận.
Tuy nhiên, nhiều khu resort không quy hoạch và kiến trúc tùy tiện. Có những khu dài hàng trăm mét, nhưng cũng có khu chỉ rộng độ 20m..., tàn phá cảnh quan thiên nhiên và cuộc sống người dân nơi đây. Phát triển du lịch cũng như quy hoạch resort tại Bình Thuận những tưởng sẽ là bài học nhớ đời cho các địa phương khác. Thế nhưng, đầu tư cho các khu resort cho đến nay vẫn là bài toán khó đối với nhiều địa phương cũng như bản thân các nhà đầu tư.
Ông Hla Aye, thành viên Hiệp hội Du lịch Myanmar, cho biết: “Resort là một mô hình nghỉ dưỡng cao cấp, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và nhu cầu của con người. Vì vậy, đầu tư vào resort là sự đầu tư đúng hướng, không những mang lại lợi nhuận cao, mà còn góp phần đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, giữa lợi nhuận và bài toán đầu tư là một khoảng cách lớn, không chỉ đòi hỏi nguồn vốn mà còn đòi hỏi phải biết cách làm. Điều này không phải nhà đầu tư nào cũng làm được”.
Khi nhìn lại thực trạng các resort của Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng, do công tác quy hoạch, tiêu chuẩn thẩm mỹ của các resort đang lộ quá nhiều bất cập, nên tiềm năng của các resort chưa khai thông hết đã bị tàn phá.
Chẳng hạn, ở Mũi Né, do phát triển ồ ạt, không theo quy hoạch khoa học nên các resort ở đây tuy nhiều nhưng manh mún, nhỏ lẻ, chủ đầu tư đa phần chạy theo lợi nhuận nên bỏ qua các tiêu chuẩn cần thiết của một resort. Nhiều khu bị bê tông hóa với mật độ xây dựng quá cao, có nơi che khuất cả tầm nhìn ra biển làm cho toàn cảnh khu vực thêm chật chội, tù túng. Nghiêm trọng hơn là các resort không có biện pháp xử lý chất thải, thường xả thẳng ra biển, gây ô nhiễm môi trường biển trầm trọng...
Mặc dù quy định khoảng cách xây dựng resort phải cách xa bờ biển 50m và độ cao không được quá hai tầng, nhưng ngay tại Phan Thiết vẫn có những resort xây sát biển và sừng sững tới bảy tầng, như Sea Lion Resort hoặc Tiến Đạt resort...
Theo các chuyên gia nghiên cứu môi trường, xây dựng các khu nhà nghỉ sát biển cũng can thiệp vào chu trình bồi lấp của cát biển ven bờ, đẩy nhanh quá trình hoang mạc hóa, phá hủy môi trường và làm bờ biển bị xói lở. Bên cạnh đó, điều kiện để xây dựng một khu resort là phải gắn liền với thiên nhiên, biệt lập với các khu dân cư và yên tĩnh. Thế nhưng hiện nay, nhiều nơi resort lại chen chúc nhau như một khu phố resort.
Ông Nguyễn Cao Trí, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư địa ốc Bến Thành, chủ đầu tư Romana Resort (Phan Thiết), cho biết: “So với Bali có khoảng 350 resort thì số lượng resort ở Mũi Né nhiều hơn gần gấp đôi nhưng quy mô lại nhỏ, chất lượng không ai quản lý. Ở các nước có số lượng resort lớn như vậy, nhà nước sẽ có chính sách quản lý, quy hoạch chi tiết.
Đặc biệt, khi đầu tư resort, các nhà đầu tư không chỉ phải cam kết giữ nguyên vẻ đẹp thiên nhiên, mà còn phải có trách nhiệm với người dân, gắn resort với văn hóa, thiên nhiên ở đó. Chẳng hạn, ở khu vực resort có bao nhiêu hộ dân làm nghề gì thì nhà đầu tư phải có trách nhiệm chăm lo cho các hộ dân và duy trì nghề đó.
Ngược lại, người dân trong khu vực sẽ là người của resort, họ mặc đồng phục của resort, trồng trọt, sản xuất ra những sản phẩm sạch, những vật dụng sinh hoạt cung ứng cho resort. Trong khi đó ở Việt Nam, vai trò của Nhà nước vẫn còn mờ nhạt, đặc biệt là thiếu sự quy hoạch tổng thể”.
Cũng chính vì phát triển tự phát, nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch, nên dẫn đến những hệ lụy không nhỏ cho nhà đầu tư. Như trường hợp hàng loạt dự án ở Phan Thiết vừa bỏ vốn xây dựng thì nhận được thông báo tạm ngưng vì quy hoạch lại. Hoặc vừa qua, hơn chục chủ dự án đầu tư vào các khu nghỉ dưỡng bãi biển ở Tiến Thành và Thuận Quý (Bình Thuận) phải ngưng vì bất ngờ bên bờ rào resort lại có công ty đến khởi công khai thác mỏ titan...
Tìm khác biệt để cạnh tranh
Sau thời gian điều chỉnh, xu hướng đầu tư vào các khu resort cũng đang tăng trở lại. Theo Sở Kế hoạch - Đầu tư Bình Thuận, chỉ tính riêng dự án du lịch ở Mũi Né (gồm Mũi Né - Hàm Tiến - Long Sơn) còn hiệu lực là 136. Trong đó có 78 dự án đang hoạt động (với khoảng trên 70 resort từ 2 sao đến 4 sao), số còn lại có 18 dự án đang gấp rút triển khai.
Xu hướng này khiến thị trường bất động sản du lịch trở nên sôi động tại các vùng biển du lịch nổi tiếng ở Việt Nam. Nhìn bên ngoài, việc đua nhau làm resort có vẻ khả quan vì số vốn đầu tư vào các dự án sau luôn có xu hướng cao hơn các dự án trước, kể cả quy mô.
Chẳng hạn, mới đây, Công ty Ngoại thương và Phát triển Đầu tư TP. HCM (MCK: FDC) đã ký biên bản ghi nhớ (MOU) với Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu về cam kết đầu tư dự án khu resort sinh thái, nghỉ dưỡng ven biển Bạc Liêu với quy mô vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng. Vào đầu tháng Tám vừa qua, Eurowindow cũng đã khởi công khu nghỉ dưỡng cao cấp Hòn Ngang - Bãi Cát Thấm tại huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) với tổng mức đầu tư là 5.800 tỷ đồng...
Trong xu hướng đầu tư mới, việc tạo ra sự khác biệt, độc đáo cho các dự án là một yếu tố được các chủ đầu tư đặc biệt nhấn mạnh. Thực chất, đây là hướng đi cạnh tranh mới của các resort khi hiện nay nguồn cung đã vượt cầu.
Bà Anoa, chủ đầu tư dự án Anoasis Beach Resort (Bà Rịa - Vũng Tàu), lý giải: “Do hiện nay có quá nhiều resort mọc chen chúc nhau nhưng hoạt động manh mún, phục vụ chưa xứng tầm với dịch vụ resort, đặc biệt thiếu phong cách riêng, nên không ít resort bị sụt giảm lượng khách và đã cạnh tranh bằng cách đua nhau hạ giá.
Tuy nhiên, cách cạnh tranh này chỉ giúp resort tồn tại trong một thời gian ngắn, vì mong muốn của khách ở resort không hẳn là giá rẻ, mà họ muốn thoát khỏi không gian cũ đang sống để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên, cảm nhận cái hồn, nét văn hóa riêng của resort qua phong cách thiết kế. Vì vậy, tạo sự khác biệt, phong cách độc đáo cho resort là xu hướng cần làm để thu hút khách”.
Giải thích vì sao các resort thường rơi vào tình trạng đơn điệu, không có nét đặc trưng và thường bị chắp vá, lắp ghép na ná nhau, ông Hà Văn An, chủ đầu tư L’amien resort, cho biết: “Do ngại tốn kém, ngại lặn lội tìm tòi vật liệu, nhà thiết kế, nhà thầu có kinh nghiệm và nhất là không am hiểu kiến trúc, vật liệu xây dựng, nên một số chủ resort thường thuê nhà thiết kế, thi công và giao hết cho họ.
Trong quá trình triển khai, nhà thiết kế chỉ đưa ra ý tưởng, sau đó giao lại cho nhân viên triển khai chi tiết và càng đi sâu, ý tưởng càng bị sai lệch.
Rồi để làm nhanh nhất, dễ nhất, các nhà thầu thường không chịu bỏ công tìm tòi vật liệu, mà chỉ cóp nhặt những gì dễ làm, dễ có để ráp lại, nên hầu hết các resort thường có chung một nét hao hao giống nhau, thậm chí họ còn pha tạp một cách vô tội vạ các kiểu kiến trúc, vật liệu sẵn có, như xây resort theo phong cách làng quê miền Trung, có mái ngói liệt, tường rơm, vách đất mà lại uốn thêm mái cong, chạm rồng, phụng như kiến trúc miền Bắc, đi với nền gạch ceramic và khung nhôm, kính...”.
Nhỏ dễ bại, lớn khó hoàn vốn
Tuy đã nỗ lực tìm sự khác biệât, nâng tầm quy mô đầu tư, dịch vụ, nhưng hầu hết các resort hiện nay đều vắng khách, công suất phòng trung bình chỉ đạt 20 - 25%, ngay cả vào mùa cao điểm (tháng Mười một - tháng Ba), hoặc những ngày nghỉ cuối tuần, công suất phòng cũng chỉ đạt tối đa khoảng 70 - 80%.
Vì vậy, có một nghịch lý là đầu tư vào resort càng nhỏ lẻ, nghiệp dư thì càng dễ thất bại, nhưng đầu tư càng nhiều thì thu hồi vốn càng chậm. Tuy có lợi thế đầu tư khá sớm và chỉ sau 5 năm đã thu hồi vốn, nhưng chủ Romana resort, ông Nguyễn Cao Trí, cũng thừa nhận: “Vào thời điểm này, gia tăng lợi nhuận ở các resort không dễ dàng và resort đang có nguy cơ khủng hoảng thừa”.
Từng đầu tư các dự án bất động sản lớn, nhưng khi nhảy sang lĩnh vực resort, khách sạn, ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, cũng phải tuyên bố: “Đầu tư vào khách sạn, resort là một thất bại và sai lầm”.
Ông Lương Tiến Đạt, Trưởng phòng Kinh doanh resort Pandanus (Mũi Né), cũng cho biết: “So với trước đây, khi thị phần chưa bị xé lẻ cạnh tranh nhiều, lợi nhuận của các resort rất khả quan. Nhưng hiện nay, doanh thu sụt giảm đáng kể. Theo ước tính, thời gian thu hồi vốn của một resort khoảng từ 5 - 7 năm tùy theo quy mô, nhưng với đà này thì sẽ kéo dài hơn”.
Với các resort nhỏ, thiếu không gian và khoảng xanh thì tình hình càng khó khăn hơn. nhiều resort ở Mũi Né đã phải ngưng hoạt động vào những mùa thấp điểm, hoặc có không ít resort cũng đã phải sang nhượng và những người chủ mới cũng chỉ “mua” resort để khai thác lợi nhuận, chứ không hề có tâm huyết đầu tư. chính vì vậy, không ít resort đã bắt đầu xuống cấp, như Whitesand Dốc Lết Resort.
Một khó khăn làm chậm quá trình thu hồi vốn, theo ông Đinh Hoàng Hải, Tổng giám đốc Tập đoàn Tân Hoàng Thắng, chủ dự án resort ở Cam Ranh, là do “rút kinh nghiệm” từ các địa phương đi trước, nhiều tỉnh, thành đã thận trọng hơn và có những quy định chặt chẽ cũng như quy hoạch chi tiết, dài hạn, nhưng các thủ tục cấp phép vẫn còn khá lâu, khiến các nhà đầu tư bị ngâm vốn.
Bên cạnh đó, những hạn chế của cơ sở hạ tầng, phương tiện đi lại cũng làm cho du khách ngần ngại, kể cả các dự án cũng chưa mạnh dạn đầu tư. 

Chia sẻ tin tức: Khách sạn sao về tỉnh

Ông Nguyễn Văn Sự, Tổng giám đốc HAGL, cho biết, sau khi đổ khá nhiều tiền của vào bốn dự án khách sạn, resort tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, HAGL đã dừng việc đầu tư vào lĩnh vực khách sạn trong khoảng ba năm trở lại đây do kinh doanh không mang lại hiệu quả như dự kiến. Riêng khách sạn Đà Nẵng mặc dù đã có lãi, nhưng HAGL vẫn sẵn sàng chuyển nhượng.
Theo ông Richard Leech, Giám đốc Điều hành Công ty CB Richard Ellis Việt Nam, nhu cầu khách sạn 4 - 5 sao tại Hà Nội và TP.HCM vẫn còn rất lớn và còn thu hút nhiều nhà đầu tư. Chẳng hạn, năm 2020, Hà Nội cần thêm 35.000 phòng khách sạn với tất cả các hạng, bao gồm 15.000 phòng khách sạn 5 sao, nhưng tại Hà Nội mới có dưới 5.000 phòng khách sạn loại này. Thực tế, đã có không ít dự án đầu tư vào khách sạn ở TP.HCM và Hà Nội.
Tuy nhiên, nếu đầu tư vào hai thành phố này thì các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước vẫn bị yếu thế vì không có vị trí tốt, hoặc nếu có thì giá đất cao, chi phí đầu tư lớn hơn nhiều lần so với đầu tư về các địa phương. Vì vậy, làn sóng đầu tư vào khách sạn ở các tỉnh bắt đầu vào cuộc.
Ông Nguyễn Văn Ngọc, Tổng giám đốc Công ty BMC, cho biết: “Xu hướng đầu tư vào khách sạn ở các tỉnh, nhất là khách sạn 3 sao, mang lại hiệu quả kinh tế và ổn định, vì đây là thị trường có nhu cầu rất lớn nhưng nguồn cung lại ít. Có thể xem đây là những đầu tư đón đầu”.
Thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua cho thấy, trong khi hầu hết các khách sạn 4 - 5 sao có tỷ lệ đặt phòng giảm từ 75% xuống còn 55%; giá phòng khách sạn 5 sao cũng sụt giảm từ 130USD vào tháng 1/2009 xuống còn 80USD vào tháng 6/2009, giá phòng khách sạn 4 sao từ 80USD xuống còn 50USD, thì công suất phòng của các khách sạn 3 sao đều đạt mức 88 - 92%, tỷ lệ lấp đầy của khách sạn 3 sao là 61,7%, cao hơn so với 56,9% của khách sạn 5 sao.
Con số này đã khiến cho cuộc đua về tỉnh thêm nóng, đặc biệt là xu hướng đầu tư cho bất động sản du lịch như căn hộ resort, khách sạn... Bến Thành Tourist đang có kế hoạch xây dựng khách sạn 3 sao tại Vũng Tàu và một số thành phố du lịch khác của Việt Nam. Tương tự, Công ty BMC cũng đã đầu tư khách sạn ở Hà Tĩnh, Kon tum, Hạ Long; Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) đầu tư khách sạn ở Đà Lạt, Quy Nhơn và Đà Nẵng...
Công ty CP Đầu tư Hạ tầng và Đô thị Dầu khí (Petroland) đầu tư Khách sạn dầu khí Tây Ninh tiêu chuẩn 4 sao, vừa khởi công vào ngày 8/8; Công ty PNJ đầu tư vào khách sạn 4 sao ở Đà Nẵng; Công ty CP Đầu tư Sài Gòn - Đà Nẵng, thành viên của Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn, xây dựng khách sạn tiêu chuẩn 5 sao gồm 349 phòng nằm trong quần thể dự án Le Meridien Danang Resort & Spa tại bãi biển Sơn Trà - Điện Ngọc...
Không phủ nhận, đầu tư vào khách sạn ở các tỉnh, thành, nhất là những thành phố đang có chiến lược phát triển mạnh về du lịch, kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp đều được hưởng chính sách ưu đãi, như khách sạn HAGL ở Đà Nẵng, Đà Lạt; khách sạn BMC Hà Tĩnh; khách sạn của PNJ ở Đà Nẵng... đều đặt ở những vị trí đắc địa, diện tích lớn.
Chính vì vậy, hấp lực đầu tư còn ở chỗ “một vị trí có thể khai thác nhiều công năng”: khách sạn, trung tâm thương mại, siêu thị, văn phòng cho thuê, nhà hàng tiệc cưới, bar, cà phê... Song, do lượng khách hiện nay đến các tỉnh vẫn chưa nhiều và chưa ổn định, nên hiệu suất sử dụng phòng thấp vẫn diễn ra thường xuyên.
Ông Nguyễn Văn Sự, Tổng giám đốc HAGL, cho biết, sau khi đổ khá nhiều tiền của vào bốn dự án khách sạn, resort tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, HAGL đã dừng việc đầu tư vào lĩnh vực khách sạn trong khoảng ba năm trở lại đây do kinh doanh không mang lại hiệu quả như dự kiến. Riêng khách sạn Đà Nẵng mặc dù đã có lãi, nhưng HAGL vẫn sẵn sàng chuyển nhượng.
Tuy nhiên, một thực tế là hiện nay không ít nhà đầu tư khách sạn còn bảo thủ, do đã kinh doanh thành công ở nhiều lĩnh vực khác, nên họ vẫn giữ lối làm việc, tư duy cũ. Điển hình là có công ty chuyên về lĩnh vực xây dựng đã cho rằng có thể làm một khách sạn từ A - Z. Vì vậy, phần thiết kế, trang trí nội thất không tránh khỏi những hạt sạn.
Trong khi hầu hết các khách sạn 4 - 5 sao có tỷ lệ đặt phòng giảm từ 75% xuống còn 55%; giá phòng khách sạn 5 sao cũng sụt giảm từ 130USD vào tháng 1/2009 xuống còn 80USD vào tháng 6/2009, giá phòng 4 sao từ 80USD xuống còn 50USD, thì công suất phòng của các khách sạn 3 sao đều đạt mức 88 - 92%, tỷ lệ lấp đầy của khách sạn 3 sao là 61,7%, cao hơn so với 56,9% của khách sạn 5 sao.
Thậm chí, giám đốc quản lý khách sạn cũng là người từng làm văn phòng, không am hiểu về dịch vụ khách sạn. Lý giải thêm điều này, ông Baron Ah Moo, Tổng giám đốc Indochina Hotels & Resorts, cho biết: “Phổ biến nhất trong ngành khách sạn là các nhà đầu tư thường chọn cách tự quản lý tài sản của họ, mà xu hướng này đang ngày càng ít đi trên thị trường.
Nhất là ở các khách sạn từ 3 sao trở xuống, nhân viên điều hành, quản lý đa số là người Việt Nam với kinh nghiệm hạn chế về ngành dịch vụ khách sạn, khiến họ khó mang lại những dịch vụ chất lượng quốc tế cho du khách.
Trong bối cảnh thị trường mang tính cạnh tranh cao, những khách sạn dù có đầu tư lớn, nhưng không có những công ty quản lý quốc tế chuyên nghiệp thì sẽ khó tạo ra thương hiệu và dịch vụ tốt”.  

Giới thiệu với bạn về những tiêu chí để đánh giá một website có chất lượng

Các chuyên gia về thương mại điện tử của Tổ chức Thương mại quốc tế ITC đã cho chúng ta một lời khuyên rất quý báu: "Hãy làm sao để người xem chỉ cần nhấn chuột không quá 3 lần để thấy thông tin cần tìm". Nếu bạn đã từng mua hàng ở các siêu thị thì rất dễ nhận thấy vấn đề này. Trong một siêu thị tốt có hệ thống chỉ đường rõ ràng , bạn biết ngay thứ bạn cần nằm ở đâu, ngoài ra bạn còn có thể "tìm kiếm nhanh" bằng cách hỏi nhân viên phục vụ. Một siêu thị kém thì khác, đi lòng vòng cả buổi nhiều khi tìm không ra. Với website cũng vậy.
Bạn có thể định nghĩa theo ISO "là sự thoả mãn yêu cầu của người dùng", không sai nhưng quá chung chung và do đó không giúp ích gì được chúng ta. 
Website có chất lượng là website thoả mãn được ba điều kiện sau đây:
- Nội dung hấp dẫn, đầy đủ, hợp với chủ ý của việc xây dựng website
- Được sắp xếp, bố cục một cách hợp lý, tạo điều kiện cho người đọc/khai thác dễ định hướng trong website.
- Hình thức đẹp, phù hợp với chủ đề nội dung.
Để làm được như vậy có khó không? Không khó nếu bạn đã xác định được rõ mục tiêu và làm việc với đối tác là một công ty chuyên nghiệp trong thiết kế và phát triển các công cụ thương mại điện tử.
Chúng ta sẽ phân tích chi tiết từng điểm:
1. Về nội dung
Trước tiên bạn cần định rõ đối tượng của website. Có thể là các khách hàng tiềm năng, có thể là các đối tác hiện có của công ty, các nhà đầu tư nước ngoài. Họ hiểu ngôn ngữ gì, những thông tin gì làm họ quan tâm hơn cả. "Biết mình biết ta trăm trận không thua".
Một điểm rất quan trọng nữa là nội dung phải được cập nhập thường xuyên. Một lỗi rất thông thường của các website tại Việt Nam là người ta làm ra nó để đưa lên mạng, sau đó thì website bị đi vào quên lãng. Một website như vậy không mang lại gì cho doanh nghiệp, thậm chí phản tác dụng.
Nguyên nhân ở đâu? Thứ nhất do chúng ta chưa có ý thức cần phải cập nhật thông tin thường xuyên, thứ hai do các website được thiết kế theo công nghệ đã lạc hậu, đòi hỏi một trình độ hiểu bất nhất định về vấn đề kỹ thuật khi muốn thay đổi nội dung.
Lối thoát: hãy yêu cầu nhà thiết kế website cung cấp cho bạn một công cụ thuận tiện để có thể tự mình thay đổi nội dung thông tin, thậm chí cả bố cục và hình thức của website. Nếu họ không làm được điều này, hoặc đòi hỏi quá nhiều, bạn có thể liên lạc với chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng giúp bạn.
2. Về hình thức
Có lẽ đây là điểm quan trọng nhất và khó nhất đối với doanh nghiệp, quan điểm về cái đẹp của chúng ta thường không giống nhau. Nhiều khi bạn cho là đẹp thì người khác lại coi là màu mè, bạn thấy đơn giản thì người khác cho là tầm thường.
Lối thoát: hãy tin tưởng giao việc này cho các nhà thiết kế, các nhà tạo mẫu chuyên nghiệp. Nếu bạn mạnh dạn bỏ cái tôi của mình sang một bên và cung cấp đủ thông tin cần thiết về công ty, về sản phẩm và dịch vụ của mình cho các nhà thiết kế, bạn sẽ có một website đẹp và chuyên nghiệp.
Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa website của một công ty lớn và một công ty nhỏ. Một nhà thiết kế web chuyên nghiệp cũng biết cách làm sao để website của bạn vừa đẹp, đồng thời vừa có kích thước nhỏ gọn, không để người dùng phải đợi lâu khi tải thông tin .
3. Về bố cục
Các chuyên gia về thương mại điện tử của Tổ chức Thương mại quốc tế ITC đã cho chúng ta một lời khuyên rất quý báu: "Hãy làm sao để người xem chỉ cần nhấn chuột không quá 3 lần để thấy thông tin cần tìm". Nếu bạn đã từng mua hàng ở các siêu thị thì rất dễ nhận thấy vấn đề này. Trong một siêu thị tốt có hệ thống chỉ đường rõ ràng , bạn biết ngay thứ bạn cần nằm ở đâu, ngoài ra bạn còn có thể "tìm kiếm nhanh" bằng cách hỏi nhân viên phục vụ. Một siêu thị kém thì khác, đi lòng vòng cả buổi nhiều khi tìm không ra. Với website cũng vậy.
Nếu đạt được ba mục tiêu trên, có thể nói bạn đã xây dựng được một website có chất lượng. Tất nhiên mọi sự không chỉ dừng lại ở đó, chúng tôi sẽ đề cập đến các khía cạnh kỹ thuật cần quan tâm trong bài viết khác.
Vậy làm thế nào để có một website thực sự có chất lượng và mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp? Câu hỏi không đơn giản và để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hãy làm một phép so sánh: website "nhà riêng", website "cửa hàng", website "nhà máy", website "siêu thị" v.v... Và đồng nhất giữa các loại website đó là có những bước cơ bản bắt buộc cần lưu tầm để có một website chất lượng, bao gồm:
Bước 1: Hãy xác định rõ chúng ta cần gì. Đó là bước đầu tiên, và rất quan trọng.
Bước 2: Tiếp theo là phải tìm cho được những "kiến trúc sư" vả cả những "thợ xây" có đủ khả năng để hiện thực hoá yêu cầu của bạn, cũng như phải dự trù được cần đầu tư bao nhiêu cho "công trình xây dựng" tương lai. Bạn đã tìm được những người có khả năng thực hiện được ý tưởng của bạn và ký được hợp đồng, đó là bước thứ hai.
Bước 3: Khi làm việc cùng nhà thiết kế, nhà phát triển website, hãy cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của "kiến trúc sư", thông tin càng nhiều, hình ảnh càng nhiều càng có nhiều cơ hội để tìm được những ý tưởng sáng tạo độc đáo. Bạn có thể khá vất vả trong giai đoạn này, nhưng không có cách nào khác. Bạn là người hiểu doanh nghiệp của mình rõ nhất.
Bước 4: Công trình của bạn đã hoàn thành, bạn cần đưa nó lên mạng, hay còn gọi là hosting và tiến hành quảng cáo, giới thiệu. Cũng giống như sau khi khai trương một cửa hàng vậy, không có quảng cáo, giới thiệu sẽ không có khách đến giao dịch, mua bán. Ít nhất thì bạn cũng phải đăng ký tên, địa chỉ của "cửa hàng" trong các "sổ tra cứu", các "catalog" về sản phẩm, dịch vụ. Trong thế giới Internet người ta gọi là các công cụ tìm kiếm như Yahoo, Google, Altavista v.v... Đây là một giai đoạn hết sức quan trọng và không thể bỏ qua. Nếu bạn không làm tốt điều này, toàn bộ công sức cho ba giai đoạn trước có thể nói là phí phạm.
Bước 5: Những công việc trên đã xong, đến đây, có thể nói vai trò của những người "thợ xây" đã kết thúc. Website của bạn có phát triển được hay không, có giữ được khách hay không là do bạn. Nếu bạn luôn cập nhật, đổi mới thông tin, đưa ra những chiến dịch khuyến mãi, có những phương pháp tiếp thị độc đáo, website của bạn sẽ mang lại hiệu quả. Đây là giai đoạn ổn định và thú vị nhất.
Bước 6: Hãy chuẩn bị cho những thay đổi trong tương lai, công nghệ thông tin phát triển rất nhanh, những gì tưởng như không thể khi bạn đang thiết kế website, một vài tháng hoặc vài năm sau đã trở thành hiện thực. Vậy nên đừng quá hài lòng với những gì đã có.